Ngày nay, người ta họa hình Quan Thế Âm Bồ Tát đội mũ ni xanh, mặc áo trang trắng, ngự trên tòa sen, bên tay phải có con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, bên dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay đứng hầu. Đâu là ý nghĩa ẩn sau những hình tượng đó?
Ngày xửa ngày xưa, có một người trải đã 9 kiếp, kiếp nào cũng giữ gìn đức hạnh, chân chính tu hành, nhưng chưa kiếp nào được thành Phật. Đến kiếp thứ 10, Đức Phật thử lòng, cho đầu thai làm con gái một nhà họ Mãng ở vùng Cao Ly. Họ Mãng đặt tên nàng là Thị Kính.
Lớn lên, nàng tài sắc nết na lại hiếu thảo hết lòng. Khi đến tuổi lấy chồng, nàng được bố mẹ gả cho thư sinh Sùng Thiện Sỹ. Sùng Thiện Sỹ là người đẹp trai, chăm học. Hai vợ chồng thật là trai tài gái sắc, ăn ở với nhau rất mực kính ái và hòa thuận.
Một đêm, Thiện Sỹ ngồi đọc sách, còn Thị Kính ngồi may bên cạnh. Thiện Sỹ bỗng thấy mệt mỏi, bèn ngả lưng xuống giường, kê đầu lên gối vợ chuyện trò rồi thiếp ngủ. Thị Kính thương chồng học mệt nên lặng yên cho chồng ngủ. Nàng ngắm nhìn khuôn mặt tuấn tú của chồng, bỗng nhận ra ở cằm chồng có một sợi râu mọc ngược. Sẵn con dao cắt chỉ trong thúng khảo đựng đồ may, Thị Kính liền cầm lên định tỉa sợi râu cho chồng. Bỗng Thiện Sĩ chợt tỉnh, tưởng vợ có bụng hại mình, liền la lên: “Nàng định cầm dao giết tôi lúc tôi đang ngủ ư?” Thị Kính đáp: “Không phải đâu. Thấy chàng có sợi râu mọc ngược, thiếp định cắt nó đi, kẻo trông xấu lắm”. Nhưng trong cơn nghi ngờ và hoảng hốt, Thiện Sỹ nhất định không tin những lời giải thích của vợ.
Ông bà Sùng nghe tiếng vợ chồng lời qua tiếng lại, vội đến hỏi nguyên do. Nghe con trai kể, ông bà tin ngay, khăng khăng cho rằng Thị Kính mưu sát chồng. Họ lập tức cho mời ông bà họ Mãng sang trách móc và trả lại con.
Thị Kính không biết giải thích sao về nỗi oan của mình, đành cắn răng chịu nhục rời nhà họ Sùng để về nhà họ Mãng. Về ở với cha mẹ, Thị Kính thấy sầu phiền, nỗi oan khổ chẳng biết thổ lộ cùng ai. Nàng bèn lặng lặng cải trang thành nam nhi, trốn nhà đi tu ở chùa Vân Tự, nay là Chùa Dâu thuộc Bắc Ninh. Nhà chùa đặt pháp danh là Tiểu Kính Tâm.
Từ đó, Kính Tâm nương náu cửa thiền, lòng vui với Đạo nên khuây khỏa được sầu phiền. Tu hành chưa được bao lâu thì tai vạ lại đến với Kính Tâm. Gần chùa Vân có ả Thị Mầu là con gái của một phú ông, vốn tính lẳng lơ đa tình. Cô này lên chùa thấy Tiểu Kính Tâm liền đem lòng si mê. Thị Mầu nhiều lần trêu ghẹo, nhưng cái tâm tu luyện của Tiểu Kính Tâm trước sau không lay chuyển. Về sau, vì không nén được lòng ham muốn, Thị Mầu cố ý có mang với người đầy tớ của cha mình là chàng Nô. Khi hào lý trong làng tra hỏi, Thị Mầu khai là con của Tiểu Kính Tâm. Kính Tâm không biết biện bạch ra sao để gỡ mối oan này nên đành cam chịu sự đánh đập tàn nhẫn.
Sư cụ thấy tiểu bị đánh đòn đau, thương tình, kêu xin với làng nộp khoán. Vì sợ ô danh chốn thiền môn nên dù thương xót Kính Tâm, sư cụ cũng phải để Kính Tâm ra ở mái Tam Quan chứ không được ở trong chùa nữa.
Đủ ngày đủ tháng, Thị Mầu sinh một đứa con trai. Phú ông bắt Thị Mầu đem đứa bé trả cho cha là Kính Tâm. Kính Tâm khi ấy đang tụng kinh, nghe tiếng trẻ khóc, nhìn ra thì thấy Thị Mầu đem con bỏ đó rồi đi. Động lòng từ bi, Kính Tâm ra ẵm lấy đứa bé và chăm lo nuôi nấng hết lòng.
Thế là từ đó, người ta thấy Kính Tâm bế đứa bé đi xin sữa ở đầu làng cuối xóm, chịu bao nhiêu tiếng cười chê.
Sau 3 năm, đứa bé đã khôn lớn, Phật thấy Kính Tâm đã thực sự vượt qua thử thách, tâm tính được đề cao tới tầm Bồ Tát, liền làm cho siêu thăng. Trước khi rời thế gian, Kính Tâm viết một bức thư để lại. Khi xem thư và khâm liệm thi hài, người ta mới biết rằng Kính Tâm là đàn bà.
Nỗi oan tình của Bà được tỏ, khi lá thư của Bà về đến quê thì ai nấy đều biết Bà không phải là gái giết chồng. Thiện Sỹ vội theo ông bà họ Mãng tới chùa Vân Tự làm lễ ma chay. Ai nấy đều nhận thấy rằng sự chịu đựng và nhẫn nhục của Bà từ bấy đến nay quả là cùng cực. Sư cụ làm lễ giải oan cho Bà. Giữa lúc cử hành đàn chay, một đám mây ngũ sắc từ trên trời từ từ hạ xuống trước đàn lễ. Đức Phật hiện ra, chứng cho Bà làm Phật Quan Âm và cho toàn gia Bà được siêu thăng, linh hồn được về Tây phương cực lạc. Riêng Thiện Sỹ, thấy rõ tình cảnh vợ, sau khi chôn cất Kính Tâm xong, chàng xin ở lại chùa tu đến hết đời.
Ngày nay, người ta họa hình Quan Thế Âm Bồ Tát đội mũ ni xanh, mặc áo trang trắng, ngự trên tòa sen, bên tay phải có con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, tương truyền chính là Thiện Sỹ, bên dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay đứng hầu, đó là con của Thị Mầu.
Vậy đó, nếu như trên cõi trần gian Thiện Sỹ và bé con của Thị Mầu là hai người trực tiếp mang đến cho Kính Tâm nhiều oan khổ, thì ở một cảnh giới khác mà nhìn, họ lại là những người đang thành tựu Phật quả cho Bà. Nếu như Thiện Sỹ không hiểu lầm nghi oan cho vợ, hẳn Thị Kính vẫn trầm mê trong giấc mộng uyên ương, mãi chẳng nhìn thấu lẽ vô thường của nhân thế. Nếu không có Thị Mầu, chú tiểu Kính Tâm hẳn vẫn mãi bình an, nương nhờ cửa Phật để nguôi ngoai muộn phiền. Nhưng tu luyện là tu cái tâm này, ở trong thống khổ và xung kích tới lợi ích, nhân tâm thì mới tu được vững chắc nhất. Kính Tâm bế đứa bé đi xin sữa ở đầu làng cuối xóm, chịu bao nhiêu tiếng cười chê, nào khác chi các đệ tử của đức Phật xưa kia vân du giữa người thường, xin ăn mà hoá độ.
Kính Tâm cuối cùng tu thành viên mãn, ấy là khi tâm tính của Bà đạt tới cảnh giới từ bi của đấng Giác Ngộ. Quay trở lại mà nhìn, bao nhiêu oan ức, khổ ải mà Bà nếm trải, chẳng phải đều cùng mục đích khai phát tâm từ bi của Bà đó sao? Tâm từ bi ấy tu xuất ra rồi, vững chắc rồi, thì màn sương mê mờ cũng được vén lên, khổ nạn đều chấm dứt.
Dù là kẻ tu hành hay thân trong thế tục, sống ở đời này, những ai đang gây khó dễ cho ta kỳ thực là đang thành tựu chính ta. Trong khổ nạn và bất công, xin bạn hãy giữ một trái tim từ bi và trân quý.
Thanh Ngọc.