Một trong những nguyên nhân tôi chấp bút viết về mệnh lý chính là để cho bạn đọc có lý giải sơ bộ chính xác về tri thức mệnh lý chân chính...
Hôn nhân có thể nói là một chủ đề vĩnh hằng của nhân loại. Có người hôn nhân cả đời hạnh phúc, bạch đầu giai lão. Có người hôn nhân quanh năm suốt tháng cãi nhau không ngừng chỉ vì những chuyện vặt vãnh. Có người hôn nhân kết thúc bằng ly hôn, ảnh hưởng không nhỏ đến con cái đời sau. Các em ở tuổi ấu thơ chịu ảnh hưởng lớn từ việc cha mẹ ly hôn, khiến chúng sau này trở nên không tin tưởng vào tình cảm, từ đó nảy sinh ý tưởng cả đời không kết hôn, không muốn có con.
Thực ra, thế hệ trước hôn nhân không hạnh phúc không có nghĩa là thế hệ sau hôn nhân cũng không hạnh phúc như thế. Không có ảnh hưởng di truyền trực tiếp trong việc này, cũng không có quan hệ tất nhiên.
Nói cho cùng thì vẫn là con người ai có mệnh riêng của mình, là đức đã tích và nghiệp đã tạo từ đời trước, từ nhiều đời trước hình thành. Người xưa nói: “Tu mười năm mới được đi chung một thuyền, tu trăm năm mới được ngủ chung một gối”. Có người là đến trả nợ báo ân, loại người này hôn nhân do kết duyên thiện. Có người là đến đòi nợ báo thù, loại người này hôn nhân là do kết duyên nghiệt ác.
Nếu vận mệnh đã được an bài theo nghiệp lực luân báo như vậy thì giờ sinh có thể xem hôn nhân tốt hay xấu không? Hôn nhân là vấn đề liên quan đến nam nữ 2 bên. Về chuyện nam nữ hợp hôn có đủ các môn các phái, đủ các thuyết khác nhau nên cũng khiến mọi người khó bề lựa chọn. Trong dân gian lưu truyền một thuyết là nam nữ kết hôn không được chênh nhau 6 tuổi.
Ví dụ: Một người nam sinh năm 1950 tìm người yêu sinh năm 1956, người nam và người nữ chênh nhau 6 tuổi (lớn tuổi hơn hay nhỏ tuổi hơn 6 tuổi cũng như thế). Nếu cha mẹ anh biết chuyện thì đa số sẽ phản đối, nói là nam nữ cách nhau 6 tuổi sẽ tương xung, không nên kết hôn. Thuyết này có từ đâu? Có đạo lý không?
Thực ra, cách nói này có nguồn gốc từ đạo lý 12 địa chi, cứ cách 6 năm thì tất sẽ tương xung. Nếu sinh năm 1950 thì địa chi là năm Dần, Dần là hổ, ngũ hành thuộc mộc. Còn sinh năm 1956 thì địa chi là năm Thân, Thân là khỉ, ngũ hành thuộc kim. Kim mộc gặp nhau ắt sẽ tương khắc (lý ngũ hành, kim khắc mộc). Tính ngược về trước 6 năm, tức năm 1944 thì địa chi cũng là Thân – kim, do đó cũng kim mộc tương khắc như thế. Đây là từ quy luật trật tự của 12 địa chi mà ra (1).
Nếu chúng ta tính giờ sinh, xem sự phối hợp toàn diện của ngày giờ tháng năm sinh thì mới có thể luận được tương sinh tương khắc của họ. Sao có thể chỉ dựa vào mỗi năm sinh tương xung là có thể khinh suất nói hung cát được?
Điều này hiển nhiên là không đủ căn cứ. Nhưng tại sao nó lại có thể lưu truyền trong thời gian dài như vậy? Thứ nhất là nó bao quát rộng tất cả, và không thể nghiên cứu sâu cái lý biện chứng ngũ hành tương sinh tương khắc của giờ sinh. Nói cách khác, không phải ai cũng hiểu được toán mệnh.
Thứ hai là có bộ phận cực nhỏ giờ sinh, sau khi trải qua xem xét biện chứng ngũ hành tương sinh tương khắc của giờ sinh, nếu năm sinh vừa đẹp là một dụng thần duy nhất của nhật chủ, thì dụng thần chính là mệnh căn của nhật chủ. Do đó, mệnh căn này không thể xung, gặp xung tất sẽ thương. Do đó, chỉ có tình huống đặc thù này thì cặp đôi cách nhau tuổi mới xung khắc, có nghĩa là xung khắc mệnh căn. Điều này thực sự là bất lợi.
Do đó, luận thuật tổng hợp về 2 tình huống, người bình thường là phòng ‘bất trắc’, nên hễ có nhân tố lục xung thì đều bài trừ, nên lưu truyền cách nói nam nữ cách nhau 6 tuổi thì không được kết hôn này. Thực tế, hợp hôn chân chính là việc khá phức tạp và tỉ mỉ. Những cách nói trong sách mệnh cũng rất nhiều và phức tạp, không phải là một vài nguyên tắc giản đơn là có thể giải quyết được.
Tuy nhiên, người dân bình thường thiếu tri thức về mệnh lý sẽ bị những ‘thầy tướng mệnh’ học hành lõm bõm loại này dọa cho sợ hết hồn, nên phải ‘ngoan ngoãn’ nghe theo, xin tùy theo ‘thầy tướng mệnh’ sắp đặt giải quyết giùm. ‘Thầy tướng mệnh’ đó sẽ nói giúp bạn cải vận, chọn ngày, hóa giải thế nào thế nào, và hét cái giá trên trời, thi triển mánh khóe lừa tiền bịp tình ra.
Hơn nữa, các thầy tướng mệnh thời xưa cũng dùng Thần sát để luận hôn nhân, như Vọng môn quả, Cốt tủy phá, Thiết phụ trửu, Lục hại, Bát bại, Đào hoa, Hồng diễm, Lang tịch, Phi thiên, Đại bại, Cô quả… Những điều này hoàn toàn là quan hệ của năm sinh, tháng sinh trong giờ sinh. Ví như xem năm sinh và tháng sinh của một người chứ chưa xem được hết toàn bộ phối hợp hành vận được mất. Đây chỉ là lấy một phần để nói trăm phần, lấy một bộ phận để nói toàn bộ, không hợp logic, cũng không đáng tin, vô cùng hoang đường, chỉ nhìn một cái là biết liền.
Tôi có một lần đi qua một quầy toán mệnh bên đường phố. Có 2 cô gái dáng vẻ người nông thôn đang ngồi xổm trước mặt thầy toán mệnh, nét mặt xem có vẻ rất kinh hoàng, đang nghe thầy toán mệnh thao thao bất tuyệt những lời đao to búa lớn. Tôi cũng lại gần nghe, hoàn toàn không nói về chế hóa ngũ hành tương sinh tương khắc trong giờ sinh và hỷ gì, kỵ gì, hoàn toàn là nói về phạm sát gì, xung gì. Thế rồi ông ta bảo hai cô gái làm thế nào để cải vận và hóa giải, sau đó đưa ra cái giá trên trời. Chẳng trách thanh danh của tướng mệnh càng ngày càng đi xuống, dường như đã trở thành công cụ để lừa tiền bịp tình rồi.
Một trong những nguyên nhân tôi chấp bút viết về mệnh lý chính là để cho bạn đọc có lý giải sơ bộ chính xác về tri thức mệnh lý chân chính, không cả tin, mù quáng nghe theo những lời lừa bịp hại người. Trên thực tế, dùng ngày giờ tháng năm sinh và ngũ hành tương sinh tương khắc luận hung cát thì vẫn còn chưa đủ, chỉ dùng mỗi năm sinh thì sao có thể đoán định họa phúc hung cát được?
Vậy làm thế nào để từ giờ sinh xem hôn nhân một cách khách quan và chính xác? Đó chính là: dùng cái lý ngũ hành tương sinh tương khắc của cả mệnh cục, lấy những điều có thể điều tiết là thích hợp.
Ví dụ như trong mệnh người nam, ngũ hành mộc thịnh kim ít, là hỷ thổ kim, phối hợp với mệnh người nữ ngũ hành là kim thổ thịnh, là hỷ mộc; hoặc mệnh người nữ ngũ hành thổ thịnh thủy ít, là hỷ kim thủy, phối hợp với mệnh người nam ngũ hành là kim thủy thịnh, thì có thể dung hòa với nhau, điều tiết lẫn nhau, ắt sẽ phu thê hòa mỹ, phú quý cát thọ.
Nếu mệnh người nam ngũ hành là kim nhược thủy nhiều, là hỷ kim thủy, phối hợp với mệnh người nữ ngũ hành là hỏa vượng kim ít; hoặc mệnh người nữ ngũ hành là thổ nhược mộc cường, là hỷ thổ kim, phối hợp với mệnh người nam ngũ hành là mộc thịnh thổ vi, thì điều tiết không tác dụng, trợ hung ra họa, ắt gia đình nhiều biến cố, trắc trở khốn cùng.
Cũng có một loại phương pháp hợp hôn như nữ mệnh thân vượng, có thương quan, mệnh ngạnh, trong mệnh phu tinh bại tuyệt, có khuynh hướng khắc phu, phối hợp mệnh người nam cũng thân vượng, kiếp tài nhiều, có khuynh hướng khắc thê. Như vậy hai người kết hợp, ngạnh đối với ngạnh, trái lại lại vô cùng bình an vô sự.
Có thể thấy nam nữ hợp hôn cần phải xem phối hợp toàn bộ ngũ hành mệnh cục, xem xét tường tận chi tiết, thế thì vận mệnh một đời họ có thể ứng nghiệm đúng không sai chút nào.
Nam Phương.