Vua làm chủ tể trong một nước, khắp trong nước từ quan đến dân, ai ai cũng là tôi tớ nhà vua. Có chữ rằng: "Phổ thiên chi hạ, mặc phi vương thổ, xuất thổ chi hạ, mạc phi vương thần" nghĩa là khắp nơi dướí trời đâu cũng là đất nhà vua, suốt mặt đất, ai cũng là tôi tớ nhà vua.
Vua thay trời để cai trị muôn dân, cho nên uy quyền của vua rất trọng, vị trí của vua rất tôn. Mà phàm danh hiệu thì cũng có một danh hiệu đặc biệt cho khỏi lẫn với danh hiệu của người thường.
Chỗ vua ở gọi là ngự cung, sập vua ngồi gọi là ngự toạ, đồ vua dùng gọi là ngự dụng, cơm vua xơi gọi là ngự thiện, vua đi chơi gọi là ngự du.
Vua thay quyền cho trời, cho nên gọi là Thiên Tử, vua ban ơn gọi là Thiên ân, vua giận giữ gọi là Thiên uy, vua đánh đâu gọi là Thiên thảo, vua tha tội cho gọi là Thiên xá.
Vua cũng quý như thần long, cho nên phàm đồ dùng của vua, thức gì cũng vẽ rồng. Áo thêu rồng gọi là Long cổn, sập trạm rồng gọi là Long toạ, kiện vua ngự gọi là Long giá, thuyền vua ngự gọi là Long thuyền, mà sân cùng bệ nhà vua cũng gọi là sân rồng bệ rồng.
Duy vua được xưng là Trẫm, điển ấy do từ Tần Thuỷ Hoàng rồi các vua đời sau đều nói theo tiếng ấy, thành ra một tiếng riêng của nhà vua tự xưng.
Vua lại như cha mẹ của muôn dân, cho nên từ quan đến dân đối với vua đều phải hết dạ trung thành, hết lòng cung kính. Các vua chầu yết tất phải hô vạn tuế, nghĩa là tôn chúc vua tuổi lâu dài. Vua ban ân cho ai một chút gì tất phải bái mạng (lạy tạ ơn vua). Chiếu sắc dụ chỉ ban về đâu tất phải rước xách tôn trọng. Ai được mông ơn của vua, dẫu bằng sợi tơ sợi tóc cũng quý, coi như được gội nhuần mưa móc ơ chín tầng trời.
Vua, trong có phi tần lục cung giúp việc nội trị, ngoài có văn võ bách quan giúp việc ngoại trị. Muôn dân trong nước thì chỉ trông mong về nhân chính của vua mà thôi.
Họ nhà vua gọi là Tôn thất, làng nhà vua gọi là là thanh mộc, họ hàng của vua được hưởng quyền lợi hơn người thường.
Tên huý của vua phải kiêng, không được dùng, mà đặt rồi thì phải cải đi. Phàm tấu sớ văn chương, dùng đến chữ trong huý thì phải đổi làm chữ khác, dùng chữ khinh huý thì được phép tỉnh hoặch (bỏ bớt một nét); khi đọc đến tên huý phải đọc tránh ra tiếng khác. Học trò thi cử làm văn, cũng là các giấy má việc quan, phạm đến tên húy phải tội.
Vua có chiếu dụ mà ai dám sai lời, gọi là vi chế, phải tội; vua có chiếu sắc ban cho ai mà không nghênh bái gọi là bất kính quân lịnh, phải tội; ai dám bàn bạc đến điều làm lỗi của vua, gọi là dương quân chi ác, cũng phải tội.
Vua băng hà, cả nước phải để tang, gọi là quốc tang. Quốc tang tuỳ mỗi trào gia giảm khác nhau. Song từ năm Tự Đức thứ ba mươi sáu thì lệ định như sau này:
Quan tam phẩm trở lên, bất câu là chưa bổ hoặc đã hồi hưu, cũng với hàng ấn quan từ, ngũ phẩm, đều phải mặc đồ trảm khôi ba năm. Lục phẩm trở lên, áo vải trắng để tang đủ ba năm. Cửu trở lên, bất câu chưa bổ hoặc hồi hưu, cũng khăn trắng để tang chín tháng; con cả quan nhất phẩm để tang một năm, con cả quan nhị phẩm để chín thang, con cả quan tam phẩm để năm tháng, cũng đều khăn áo trắng. Tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, tú tài, giám sinh, ấm sinh, học sinh cũmh để tang chín tháng; võ cử anh danh cũng vậy. Thân phụ các quan từ thất phẩm trở lên, phải để ba tháng. Vợ mệnh phụ của quan tam phẩm trở lênvà vợ cả của quan lục phẩm trở lên, để tang theo chồng.
Ở kinh bắt dầu từ ngày phát tang, ở ngoài bắt đầu từ ngày mới đưa tin, hạn trong năm ngày, quân dân cấm không được mặc đồ điều, đỏ; trong hai mươi bảy tháng, cấm không được hát xướng đàn địch.
Việc giá thú, tam phẩm trở lên cấm một trăm ngày tứ phẩm trở xuống cấm hai tháng, quân dân cấm hai mươi bảy ngày.
Quan viên nào mới được thăng hàm hễ trong một trăm ngày thì chiếu theo phẩm hàm mới mà để tang, ngoài một trăm ngày thì cứ theo nguyên phẩm cũ mà để tang. Các quan viên khi thường làm việc phải dùng khăn trắng áo thâm. Gặp khi có việc sai phái việc quân, thì được mặc đồ nhung phục; còn việc thường đều bận khăn trắng áo thâm.