Thơ rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông
Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”
(Bạch Đằng Giang Phú – Trương Hán Siêu)
Lịch sử như dòng sông dài cuốn đi trong lớp sóng của nó bao nhiêu sự tích, chiến công, thành bại của cả một dân tộc. Thế kỷ 21 hiện đại với quá nhiều thú vui và dục vọng, mấy ai còn lưu tâm đến những huy hoàng của quá khứ, những tinh hoa của cổ nhân hay những bài học sâu sắc từ ngàn xưa?
Việt Nam 4.000 năm văn hiến với nhiều triều đại kiệt xuất thấm đẫm văn hóa Phật Đạo Thần đã đem đến cho dải đất xinh đẹp này biết bao nhiêu kỳ tích và truyền kỳ vẫn còn rọi sáng đến tận hôm nay. Chúng tôi tiến hành loạt bài viết về lịch sử Việt Nam mong muốn đem đến cho quý độc giả một góc nhìn mới về sử Việt, chính là ôn cũ biết mới, ngẫm chuyện xưa nhìn chuyện nay, tự đúc rút cho mình những trải nghiệm riêng.
Bậc túc nho từng khiến vua Quang Trung phải hạ cố 3 lần xuống chiếu cầu hiền, đó là vị quân sư tầm nhìn, sở học bác đại tinh thâm, ngồi trong màn trướng vẫn liệu sự xa ngoài nghìn dặm. Đó là danh sĩ đất Bắc Hà nổi tiếng, đã tỏ rõ được khí phách, tài năng của một bậc hiền nhân quân tử có tài an bang trị quốc trong thời loạn lạc…
Cuối thế kỷ 18, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ xuất sơn, đánh bại hết các thế lực hùng cứ, dẹp yên các anh hùng Đại Việt trong loạn thế và dựng lập nên quốc gia của riêng mình.
Tuy nhiên việc giành thiên hạ và cai trị thiên hạ lại là hai chuyện rất khác nhau bởi không thể nào chỉ dựa vào võ lực để vỗ yên đất nước. Nguyễn Huệ đã sớm nhận ra vấn đề này ngay khi ông vừa đăng quang hoàng vị.
Nước Việt sớm đã tơi tả sau hàng trăm năm nội chiến, lòng người không còn niềm tin để hướng về và cũng không có một triều đình đủ mạnh để tập trung sức mạnh quân dân mà xây dựng nên một xã hội thịnh thế như triều Lê Thánh Tông trước đó.
Trong bối cảnh ấy, Nho học chính là cứu cánh vì sự hữu hiệu của nó trong quản lý xã hội suốt nghìn năm qua. Việc tìm ra một nhân tài tinh thông Nho học để giúp hoàng đế đề ra chính sách quản trị quốc gia chính là việc cấp bách hơn bao giờ hết.
Nguyễn Huệ đặc biệt ưu ái một người tên là “La Sơn Phu Tử” Nguyễn Thiếp, ba lần đích thân viết thư mời ông về làm việc cho mình. Nguyễn Thiếp thân chỉ là một nhà Nho ở ẩn, không phải đại quan nhiều năm kinh nghiệm, cớ sao lại khiến cho vị Hoàng đế bách chiến bách thắng không ngừng hạ cố cầu hiền như thế?
Sử ghi: “Nguyễn Thiếp vốn có tên húy là Minh, tự là Quang Thiếp, sau vì kiêng húy vua chúa nên đổi là Thiếp”. Ngoài ra, ông còn có rất nhiều tên tự hay tên hiệu, hoặc do ông tự đặt, hoặc do người đương thời xưng tặng, chẳng hạn như: Cuồng ẩn, Lạp Phong cư sĩ, Lam Hồng dị nhân, La Giang phu tử… Riêng Nguyễn Huệ (tức vua Quang Trung) thì gọi ông là La Sơn phu tử. Cái tên này đã theo ông trong suốt những năm tháng còn lại trong đời, cũng là cái tên được hậu thế xưng tụng, nhớ đến nhiều nhất.
Năm Bính Tuất (1756), ở tuổi 33, Nguyễn Thiếp được bổ làm Huấn đạo, chức quan dạy học trong một huyện ở Anh Đô (phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An). Ở đó 6 năm, ông được đổi làm Tri huyện Thanh Giang (nay là Thanh Chương, Nghệ An). Đến năm Mậu Tý (1768), ông xin từ quan về ở ẩn tại trại Bùi Phong trên dãy Thiên Nhẫn.
Nhìn vào những dòng tiểu sử trên, ta có thể thấy Nguyễn Thiếp chỉ là một nhà Nho ở ẩn và cũng không phải là một đại quan cao cấp của triều đình. Nói thẳng ra là chưa chắc ông có kinh nghiệm phò vua như các danh thần cựu triều đang làm cho nhà Tây Sơn.
Ấy thế mà ông lại được Hoàng Đế Quang Trung gửi thư và lễ vật cầu kiến đến 3 lần. Trong lịch sử Việt Nam chắc cũng chưa có nhà Nho nào lại được trọng vọng như thế.
Xưa có câu “Thịnh danh thiên hạ vô hư sĩ”, nghĩa là kẻ có danh trong thiên hạ đều không tầm thường. La Sơn Phu Tử cũng thế. Hãy xem đoạn đối thoại của ông và vua Quang Trung trước khi tiến quân ra Bắc đánh quân Thanh:
Vua Quang Trung hỏi Nguyễn Thiếp: “Hay tin Chiêu Thống sang nhà Thanh cầu lụy, vua Thanh cho quân sang đánh, trẫm sắp đem quân ra chống cự, mưu đánh và giữ nước được hay thua, Phu tử nghĩ thế nào?”.
Nguyễn Thiếp trả lời: “Bây giờ trong nước trống không, lòng người tan rã, quân Thanh thì ở xa tới mà lòng bọn tướng soái thì huênh hoang tự đắc, chúng không cần biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, binh lương và trận chiến sẽ xảy ra như thế nào, còn quân lính thì phân vân không biết là sang đánh hay đến giữ theo sự khẩn khoản của vua Lê.
Số quân của Hoàng đế kéo từ miền trong ra chưa đủ để chống đối với quân giặc, mà trở lại chiêu mộ thêm binh thì thời gian không cho phép. Vậy Hoàng đế phải tuyển mộ ngay quân lính ở đất Thanh Nghệ, vì nơi đây là đất thượng võ xưa nay, anh hùng nhiều, mà hảo hán cũng nhiều”.
Khi vua Quang Trung hỏi chiến thuật đánh quân Thanh, Nguyễn Thiếp trả lời: “Người Thanh ở xa tới mệt nhọc không biết tình hình khó dễ thế nào. Nó có bụng khinh địch. Nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được”.
Một ông lão ở ẩn mà chỉ trong vài câu nói đã biết được đạo hùng binh Thiên triều kia ắt phải tan trong mười ngày và phân tích thấu triệt tình thế quân giặc trong lòng bàn tay, lại biết rõ tình thế binh lực phân bố của thiên hạ. Điều này đã gợi nhớ về hình ảnh của Khổng Minh khi chưa ra khỏi lều cỏ đã biết thiên hạ tam phân.
Vì thế không lạ gì khi Quang Trung liên tục gửi thư khẩn khoản mời Nguyễn Thiếp ra làm quan giúp triều đình. Và cũng bởi Quang Trung có đủ lực lượng để dẹp yên thiên hạ, võ công cái thế nhưng ông lại không có được một văn thần đủ tầm để cùng ông làm cho quốc thái dân an.
Cảm thái độ chân tình 3 lần hạ cố mời xuất sơn của vua Quang Trung, sau chiến thắng Kỷ Dậu 1789, Nguyễn Thiếp đã nhận lời mời vào Phú Xuân để giúp việc nước cho nhà Tây Sơn.
Đến gặp nhà vua, ông đã dâng lên Quang Trung một bản tấu bàn về 3 vấn đề: Một là “Quân đức” (đại ý khuyên vua nên theo đạo Thánh hiền để trị nước). Hai là “Dân tâm” (đại ý khuyên vua nên dùng nhân chính để thu phục lòng người). Ba là “Học pháp” (đại ý khuyên vua chăm lo việc giáo dục).
Tuy là ba vấn đề khác nhau nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau và đều lấy quan niệm “dân là gốc nước” làm cơ sở. Nguyễn Thiếp viết: “Dân là gốc nước, gốc vững nước mới yên“.
Những lời tấu ấy được nhà vua nghe theo. Ngày 20 tháng 8 (1791), nhà vua ban chiếu lập “Sùng Chính Thư viện” ở nơi ông ở ẩn và mời ông làm Viện trưởng. Kể từ đó, ông hết lòng chăm lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy học và phổ biến trong dân. Chỉ trong hai năm, ông đã tổ chức dịch xong các sách: Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi và chủ trì biên soạn xong hai bộ sách là “Thi kinh giải âm” và “Ngũ kinh toát yếu diễn nghĩa”.
Nhưng ngay vào lúc vua tôi đồng lòng, việc lớn sắp thành thì một cơn giông tố xảy đến. Tháng 9 năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung đột ngột băng hà, sự nghiệp của Nguyễn Thiếp cũng đành dở dang.
Năm Tân Dậu (1801), vua Cảnh Thịnh (con vua Quang Trung) có mời ông vào Phú Xuân để hỏi việc nước. Đúng lúc ấy thì kinh thành mất vào tay chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau là vua Gia Long). Biết tiếng Nguyễn Thiếp, vua Gia Long cũng có ý muốn trọng dụng. Nhưng ông lấy cớ già yếu để từ chối, rồi xin về.
Ngày 6 tháng 2 năm 1804 (Quý Hợi), danh sĩ Nguyễn Thiếp không bệnh mà mất, thọ 81 tuổi, được an táng tại nơi ông ở ẩn.
Nho giáo là tư tưởng chủ đạo trong quản lý xã hội trong suốt hơn 2000 năm ở Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc… Nho học đặt ra chuẩn tắc sống và cư xử, từ bậc quân vương đến thứ dân đều cần tôn trọng, làm theo, góp phần tạo ra một xã hội văn minh, ổn định và hạnh phúc. Những triết lý của Nho học dựa trên quy chuẩn đạo đức cao thượng nhất mà một người bình thường có thể đạt đến.
Nhiều năm qua, Nho giáo thường bị đoạn chương thủ nghĩa, hiểu lầm và phê phán là lạc hậu, cổ hủ. Sự thực là, Nho giáo cùng với các chính giáo trong lịch sử đã duy hộ cho đạo đức xã hội không xuống dốc suốt hàng ngàn năm qua. Chỉ có duy trì được đạo đức thì quốc gia và người dân mới có được thái bình thật sự.
Trong thời thế loạn lạc, đạo đức suy vi thì hình ảnh của một nhà Nho ở ẩn bước ra giúp vua trị quốc, san định kinh thư Thánh hiền để giáo hóa dân chúng bỗng trở nên thật đẹp. Tuy ý Trời không chiều Nguyễn Thiếp và Quang Trung, khiến sự nghiệp của cả hai đều dang dở, nhưng tấm lòng vì dân, vì nước của họ đã đi vào sử sách. Quả thật là “tận nhân lực, tri thiên mệnh” (làm hết sức mình dù biết mệnh Trời).
Minh Trí.