Trước khi đắc quả vị Phật, Tôn Ngộ Không đã tu đến cảnh giới nào?

Trước khi đắc quả vị Phật, Tôn Ngộ Không đã tu đến cảnh giới nào?

Sau hành trình thỉnh kinh gian khổ trùng trùng, thầy trò Đường Tăng cuối cùng cũng tới được Linh Sơn, bái kiến Phật Tổ. Trong bốn đồ đệ của pháp sư Huyền Trang, chỉ một mình Tôn Ngộ Không là chứng đắc quả vị Phật, được Như Lai phong chức Đấu Chiến Thắng Phật. Có người nói đó là vì Ngộ Không dọc đường trừ yêu diệt quái có công lớn nhất, âu cũng là một phương diện. Bên cạnh đó, quả vị đắc được nhất thiết phải tương đương với cảnh giới tâm tính của người tu luyện, tâm tính cao bao nhiêu thì quả vị lớn bấy nhiêu. Bạn đọc yêu mến "Tây du ký" đã bao giờ tự hỏi, cảnh giới mà Tôn Ngộ Không tu tới trước ngày viên mãn là như thế nào chăng?

Tôn Ngộ Không vốn là con khỉ đá trời sinh, hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt, bản tính linh thông, căn cơ ngộ tính đều tốt. Lênh đênh biển lớn tìm Đạo, vào thời điểm gặp Bồ Đề Tổ Sư thì Ngộ Không vô cùng thuần phác lương thiện: “Người ta mắng con, con cũng không giận: đánh con, con cũng không tức, chỉ lạy họ mà thôi, cả đời con không có tính”. Vì thế, Ngộ Không được Tổ Sư chân truyền yếu quyết tu Đạo, học được phép trường sinh, lại tinh thông 72 phép biến hoá. Tuy nhiên, chỉ một tâm đắc ý hiển thị trước mặt bạn hữu cũng đủ khiến Ngộ Không bị sư phụ đuổi khỏi sư môn, trở về núi Hoa Quả. Bấy giờ, không còn ai kiềm thúc, tâm kiêu ngạo hung hãn của Ngộ Không càng ngày càng bành trướng, “quan phong Bật Mã còn chê nhỏ, tên gọi Tề Thiên dạ chẳng yên”. Sau cùng, Tề Thiên Đại Thánh đại náo thiên cung, bị Phật Tổ Như Lai dùng thần lực đè dưới núi Ngũ Hành, 500 năm đói ăn viên sắt, khát uống rỉ đồng, chờ đợi người đi lấy kinh.

“500 năm bãi bể nương dâu”, Tôn Ngộ Không chờ người đi lấy kinh.

Có thể nói, Tôn Ngộ Không do trời đất hoá dục mà thành nên bản tính bẩm sinh là vô cùng thuần khiết. Vì không giữ vững tâm tính nên Ngộ Không mới ngày càng sa đọa biến chất, lúc bị Như Lai trừng phạt thì chẳng còn hơn gì một yêu tinh. Hành trình đi Tây Trúc thỉnh kinh, phò tá bảo hộ Đường Tăng chính là hành trình tu luyện, phản bổn quy chân của Tôn Ngộ Không. Những ma nạn gặp phải trên đường đi được Thần Phật an bài để Mỹ hầu vương diệt trừ ma tính, bồi đắp Phật tính. Kể từ hồi thứ 14 “Lòng vượn theo đường chính, Sáu giặc mất tăm hơi”, khi Tôn Ngộ Không gặp được sư phụ Đường Tăng, ta có thể thấy một Tề Thiên Đại Thánh trải qua từng bước từng bước nhẫn nhục mà thuần hoá bản thân. Tới trước ngày bái kiến Như Lai, Tôn Ngộ Không thực sự đã đạt tới một cảnh giới phi phàm, thoát tục.

Nhìn lại hành trình tu luyện của Tôn Ngộ Không, những ngày đầu mới theo Đường Tăng, Hành Giả về cơ bản là không thể nhịn dù là chút oan ức nhỏ. Giết sáu tên cướp bị sư phụ trách mắng, một cân đẩu vân là về chỗ Đông Hải Long Vương. Bị chụp vòng kim cô, đã toan tới Nam Hải “nện” cho Quan Âm một trận. Từ khi đội vòng kim cô, Tôn Ngộ Không mới thực lòng thực dạ bảo hộ Đường Tăng, dọc đường xông pha nguy hiểm, bao phen cứu thầy. Nhưng ma nạn thì nhiều mà sức người có hạn, yêu tinh quỷ quyệt mà Đường Tăng mắt thịt ngây thơ, đã bao lần Tôn Ngộ Không phải nhỏ lệ xót xa cho số kiếp gian truân, hay dằn lòng vì chịu điều oan ức. 

Ví như ở hồi 27 “Thây ma ba lượt trêu Tam Tạng, Đường Tăng giận đuổi Mỹ Hầu vương”, Đường Tăng trúng kế Bạch Cốt Tinh nên cho rằng Ngộ Không quen thói hành hung, giết ba mạng người lương thiện. Một dạ cứu thầy mà bị hiểu lầm nhiếc móc, đuổi như đuổi tà, Ngộ Không chua xót thế nào, ai cũng dễ dàng hiểu được. Lần thứ ba bị sư phụ đuổi, Ngộ Không nói: “Sư phụ mắng oan con rồi. Rõ ràng nó là con yêu tinh, rắp tâm làm hại thầy, con đánh chết nó, giúp thầy trừ họa, mà thầy không nhận ra, lại tin thằng ngốc gièm pha, mấy lần đuổi con. Người ta thường nói: “Sự bất quá tam”, con mà không đi, thành ra hạng hạ lưu không biết xấu hổ. Thôi, con đi đây, đi đây! Đi cũng được thôi, chỉ e sư phụ không có thủ hạ giỏi”. Đó là tâm trạng bất bình uất ức xen lẫn tự ái, đau buồn.

Hay như ở hồi 65 “Yêu ma bày đặt Lôi Âm giả, Thầy trò đều gặp ách nạn to”, khi chứng kiến sư phụ, các sư đệ và thiên thần bị yêu quái bắt lại, Tôn Ngộ Không đã “nghiến răng căm giận, nước mắt lã chã nhớ thương Đường Tăng, đoạn lại ngửa mặt lên trời, cất tiếng khóc thất thanh ai oán: Sư phụ ơi, sư phụ tạo nghiệp truân chuyên từ đời kiếp nào, mà kiếp này mỗi bước đi đều gặp yêu tinh? Hoạn nạn này khó thoát quá, biết làm thế nào bây giờ?”.

Trong khó khăn kiếp nạn, ở bước đường cùng tưởng như chẳng còn hy vọng, con người khó tránh khỏi ngã lòng như thế. Thậm chí, ở hồi 77 “Yêu ma lừa bản tính, Nhất thể bái chân như”, khi gặp phải địch thủ quá gian manh quỷ quyệt, Tôn Ngộ Không khổ sở đau thương tới nỗi oán trách Phật Tổ: “Việc này là đức Phật Như Lai ở cõi cực lạc, do nhàn rỗi chẳng có việc gì mà làm, mới viết ra bộ kinh Tam Tạng đây mà! Nếu đức Phật có lòng khuyến thiện, thì lẽ ra phải đưa sang phương Đông, lại không lưu truyền muôn thuở sao? Đằng này không chịu đưa sang, lại bắt bọn ta phải đến lấy, có biết đâu phải vất vả gian nan trèo đèo lội suối để rồi tới đây bỏ mạng!”.

Thế rồi mỗi một bước đường đi qua, càng về sau Tôn Ngộ Không càng kiên định, từ bi, mà đỉnh cao có lẽ là ở ma nạn xảy ra ngay trước khi thầy trò tới núi Linh Thứu. Chuyện là đoàn thỉnh kinh đi tới phủ Đồng Đài huyện Địa Linh, được gia đình Khấu viên ngoại cúng dường trọng hậu suốt nửa tháng trời, cụ bà còn nài nỉ thầy trò ở lại thêm để mình được hiến chay thêm nửa tháng nữa cho tăng phần công đức. Tam Tạng sốt ruột cầu kinh nên nhất mực từ chối. Khấu viên ngoại giữ Đường Tăng không nổi đành mở hội từ biệt, đưa tiễn linh đình. Chẳng may, đêm ấy một toán cướp nổi lòng tham, vào nhà họ Khấu giết người cướp của. Cụ bà nghĩ giận thầy trò Đường Tăng không nhận sự cúng dâng cơm chay của mình, rồi do tống tiễn linh đình nên mới nên nông nỗi, bèn sinh lòng oán giận, đệ đơn vu cáo mấy thầy trò là thủ phạm. Rủi thay, thầy trò Đường Tăng trên đường gặp đúng bọn cướp này, Đại Thánh trổ thần uy lấy lại số vàng bạc giúp nhà họ Khấu, còn lũ cướp bỏ chạy tháo thân. Đang trên đường đem số vàng bạc trả lại nhà Khấu viên ngoại thì mấy thầy trò bị quan quân bắt được.

Tây du ký hồi thứ 97 “Vàng mang trả gây thành tai họa, Thánh hiện hồn cứu thoát cao tăng” có viết:

“Vừa dứt lời quan quân đã ập tới trước mặt, dàn thành vòng tròn vây chặt bốn thầy trò, quát:

– Lũ hòa thượng này giỏi nhỉ! Đã ăn cướp của cải nhà người lại còn nghênh ngang ở đây!

Đoạn xông vào lôi Đường Tăng xuống ngựa, lấy thừng trói nghiến lại, sau đó cũng trói luôn cả bọn Hành Giả xỏ vào đòn khiêng, cứ hai người khiêng một, dắt ngựa gánh đồ về thẳng phủ thành. Chỉ thấy:

Đường Tam Tạng, run như cầy sấy, nước mắt nghẹn ngào
Trư Bát Giới, càu nhà càu nhàu, trong lòng oán thán.
Sa Hòa Thượng, buồn như chấu cắn, suy nghĩ miên man.
Còn Tôn Ngộ Không, cười khành khạch, muốn khoe thủ đoạn.

Quan quân xúm vào khiêng đi, chẳng mấy chốc đã về tới phủ thành, giải hết cả lên công đường báo bẩm:

– Bẩm quan lớn, chúng con đã bắt được bọn cướp về đây rồi ạ.

Quan thứ sử ngồi ngay ngắn giữa công đường, ủy lạo quân sĩ, kiểm lại tang vật, cho gọi nhà họ Khấu tới nhận, lại cho giải bọn Tam Tạng vào sảnh đường hỏi tội:

– Bọn hòa thượng này mồm kêu là từ phương Đông xa xôi tới, sang phương Tây bái Phật cầu kinh, hóa ra là một bọn cướp bày đặt ra thế để dò xét đường đi lối lại trong nhà người ta rồi ăn cướp của cải!

Tam Tạng thưa:

– Xin đại nhân cho được nói: Bần tăng thực không phải là cướp, không dám dối trá điều gì. Trong người hiện có tờ điệp văn đại nhân có thể soi xét. Chỉ nhân nhà Khấu viên ngoại hiến trai chúng tôi nửa tháng, tình cảm sâu nặng, dọc đường gặp bọn cướp, chúng tôi lấy lại được số của cải bọn chúng cướp được ở nhà họ Khấu, định quay lại mang trả nhà họ Khấu để báo ơn, không ngờ gặp quân lính vây bắt cho là kẻ cướp. Thực tình chúng tôi không phải là kẻ cướp, muốn xin đại nhân xét kỹ.

Quan thứ sử nói:

– Bọn các ngươi bị quan quân bắt được, lại khéo nói là báo ơn. Nếu đã dọc đường gặp cướp, tại sao không bắt ngay lấy bọn chúng, vừa báo quan báo ơn một thể, tại sao lại trơ khấc chỉ có bốn người bọn các ngươi? Các ngươi xem, Khấu Lương đệ đơn kiện, viết rõ tên các ngươi, các ngươi còn dám chối cãi gì nữa!

Tam Tạng nghe xong, khác nào sấm đánh mang tai, hồn xiêu phách tán, cất tiếng gọi:

– Ngộ Không, sao con không thanh minh đi! 

Hành Giả nói:

– Tang vật rõ rành rành, còn thanh minh gì nữa!”.

Thật thú vị! Lần này cũng là làm ơn mắc oán, bị trói bị tù, thế mà Tôn Ngộ Không lại “cười khành khạch”, chẳng mảy may lo lắng, bị hiểu lầm cũng chẳng buồn giải thích thanh minh. Đoạn thơ miêu tả thái độ của bốn thầy trò khi bị quan quân bắt trói là bức tranh đối lập giữa một Đường Tăng sợ hãi, một Bát Giới oán trách, một Sa Tăng lo buồn, với một Ngộ Không vui vẻ. Vì sao Tôn Ngộ Không lại vui nhỉ? Tây du ký, hồi 97 viết:

“Vào khoảng canh tư ba khắc, Hành Giả thấy xung quanh im ắng, mọi người đã ngủ say, bèn nghĩ thầm:

– Sư phụ số phải chịu tai nạn ngồi tù đêm nay. Lão Tôn không mở mồm thanh minh, không thi thố pháp lực, cũng chỉ vì thế. Bây giờ đã là canh tư, tai nạn sắp qua khỏi, ta phải đi chuẩn bị trước, đợi trời sáng, ra khỏi nhà lao”.

Thì ra, đó là vì Tôn Ngộ Không đã nhìn thấu sự an bài của Thần Phật. Phải ngồi tù ở phủ Đồng Đài quả thực chính là ma nạn thứ bảy mươi chín ghi trong cuốn sổ của Bồ Tát (hai nạn còn lại là: thoát thai bến Lăng Vân và bị rùa lật rơi sông Thông Thiên). Con người khi lâm vào khổ nạn thường bị cảm xúc dày vò, nào lo sợ buồn thương, nào giận hờn oán thán. Nhưng trong con mắt của Thần Phật, ma nạn chính là cánh cửa giúp người tu luyện tiến về viên mãn, là cơ hội tốt để người tu luyện tiêu trừ tội nghiệp và ma tính, là hoàn cảnh gây dựng uy đức của đấng giác ngộ tương lai. Tôn Ngộ Không lúc này đây đã không còn là một Tề Thiên Đại Thánh hung hăng chẳng chịu nổi một điều oan ức nhỏ, cũng không còn là một Mỹ hầu vương dễ dàng rơi lệ vì số kiếp gian truân. Đến bước này, Tôn Ngộ Không thực sự đã “ngộ không”, ngộ ra chỉ cần bình thản đối diện với ma nạn, lòng không gợn nhân tâm chấp trước, thì nhất định vượt qua.

Bởi vậy, mới có thơ rằng:

Linh đài chẳng vật gọi là thanh,
Tịch mịch an nhiên niệm chẳng sinh.
Khỉ ngựa giữ gìn đừng thả lỏng,
Tinh thần cẩn thận chớ chênh vênh.
Giặc trừ sáu đứa, Tam thừa ngộ,
Đoạn tuyệt muôn duyên mới hiển linh.
Diệt hết sắc tà lên cõi Phật,
Tây Phương cực lạc chốn thanh bình.

Tây du ký là cuốn tiểu thuyết trường thiên 100 hồi, kể từ lúc Tôn Ngộ Không sinh ra tới khi tu đắc quả vị Phật. Người đọc say mê từng trang tiểu thuyết, vui buồn thấp thỏm cùng những bước chân gập ghềnh của thầy trò Đường Tăng, khi nhỏ lệ xót xa, lúc cười vang khoái chí. Đôi khi, chúng ta tưởng như mình đang nhập cùng đoàn người tới Thiên Trúc, có độc giả xem xong còn ước sau này cũng được đi thỉnh kinh. Để nói rằng, cuốn tiểu thuyết vĩ đại này có sức hấp dẫn, lôi cuốn phi thường như thế. Vậy mà nhân vật chính Tôn Ngộ Không, tới ma nạn ở phủ Đồng Đài đã nhảy thoát ra khỏi vở diễn kinh thiên động địa Tây du ký, để thanh tỉnh nhận ra: nguy nan trong hiện tại chỉ là một tình tiết được Thần Phật an bài từ trước, bước một bước là qua.

Trên đường đời thăng trầm sóng gió, có mấy ai làm được như Tôn Ngộ Không? Có thể “lấy khổ làm vui”, như một vị khán giả đang dõi theo vở diễn mà bản thân mình là nhân vật chính. Nếu có thể làm được vậy, thì mọi được mất trong cõi người chẳng thể động đến tâm can, mọi thắng thua chốn nhân gian chỉ như mây khói. Người như vậy, có lẽ đã đến rất gần cảnh giới của đấng giác ngộ vậy. 

Một người tu luyện Đại Pháp có lời ca rằng:

Hành trình biết bao đời, tìm kiếm trăm nghìn lần.
Người có duyên trở về, Pháp quang xóa mây mù.
Người trí tuệ tâm sáng, trong khổ vẫn thường vui.
Thức tỉnh trong cõi tục, mới biết vẻ đất trời.

Thanh Ngọc.

Tin bài liên quan