Là mảnh đất “địa linh nhân kiệt”, cổ sử nước Việt đã sản sinh ra nhiều dũng tướng nổi tiếng, lưu danh thiên cổ, được hậu nhân nghìn đời ca tụng. Dù con sóng của dòng chảy lịch sử có bồi lấp thế nào, những cái tên ấy vẫn chưa từng bị quên lãng.
Nói không ngoa, các tướng quân chính là linh hồn của một vương triều, một quốc gia. Ở thời bình, họ là năng thần phò tá hoàng đế trị quốc, an dân. Trong thời loạn, họ trở thành tấm khiên vững vàng, chống đỡ sơn hà. Do đó, nhìn vào khí chất, chân dung của các dũng tướng có thể phần nào hiểu được truyền thống văn minh, lịch sử của một quốc gia.
Lịch sử trung đại Việt Nam xuất sinh rất nhiều tôi tài, tướng giỏi. Và như một quy luật, những cái tên có sức ảnh hưởng nhất hầu như đều thể hiện vai trò trong các cuộc tranh đấu với vương triều phương Bắc. Lý Thường Kiệt đánh Tống, Trần Hưng Đạo kháng Nguyên, Quang Trung phạt Thanh… đều cùng là một kịch bản như vậy.
Dưới đây là bảng xếp hạng 9 vị tướng quân nổi danh nhất lịch sử Việt Nam đã được chúng tôi lựa chọn dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Tất nhiên sự xếp hạng vẫn chỉ là tương đối. Do giới hạn của bài viết, ở đây chỉ xin bàn về những danh tướng trong cổ sử Việt Nam. Ở kỳ 1 này, chúng ta sẽ điểm qua 5 cái tên đầu tiên: Trần Quang Diệu, Triệu Quang Phục, Phùng Hưng, Đặng Dung và Lê Hoàn.
1. Trần Quang Diệu (1760 – 1802)
Là một trong “Tây Sơn thất hổ” (7 con hổ của nhà Tây Sơn), Trần Quang Diệu chính là danh tướng tài ba nhất, quan trọng nhất của vương triều Tây Sơn. Sau khi vua Quang Trung mất, Trần Quang Diệu trở thành phụ chính đại thần, phò tá vua Cảnh Thịnh (tức Quang Toản, con Quang Trung). Tuy nhiên, đó là thời điểm mà thế lực của chúa Nguyễn Ánh đang ngày càng lớn mạnh. Dù tài giỏi, Trần Quang Diệu vẫn không thể chống giữ được giang sơn đang nghiêng đổ của nhà Tây Sơn.
Trần Quang Diệu nổi tiếng là người nghĩa hiệp, có khí chất quân tử. Năm 1801, trong cuộc chiến thành Quy Nhơn, Diệu vây chặt thành. Tướng giữ thành là Võ Tánh liều chết cầm cự. Khi quân lương đã cạn, Võ Tánh tự vẫn, gửi lại cho Quang Diệu một phong thư xin tha chết cho các tướng sĩ. Sau khi vào thành, Quang Diệu sai làm lễ an táng tử tế cho Võ Tánh và không giết một binh sĩ nhà Nguyễn nào.
Sau này, khi chúa Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, chiếm được thiên hạ, Trần Quang Diệu và vợ ông Bùi Thị Xuân (cũng là một nữ tướng) đã bị xử tử. Trước đó, Nguyễn Ánh tiếc tài của Diệu, muốn chiêu hàng nhưng ông đã từ chối thẳng.
2. Triệu Quang Phục (? – 571)
Triệu Quang Phục là Tả tướng quân thời vua Lý Nam Đế. Khi nước Vạn Xuân non trẻ phải chống đỡ những cuộc tấn công của nhà Lương, ông chính là một nhân vật quan trọng. Năm 546, Lý Nam Đế thua trận, uỷ thác việc nước cho Triệu Quang Phục. Để quyết kế chống nhau lâu dài với địch, năm 547, ông lui về xây dựng căn cứ ở đầm Dạ Trạch (Hưng Yên ngày nay).
Triệu Quang Phục mang 2 vạn người vào đóng quân ở bãi đất nổi bên trong đầm, dùng đoản binh, đánh du kích, khiến cho tướng nhà Lương Trần Bá Tiên đứng ngồi không yên. Sau đó, Bá Tiên phải lui về phương Bắc để chống lại một cuộc bạo loạn. Triệu Quang Phục thừa cơ đánh cho quân Lương tan vỡ.
Sau này, một người thân thích của vua Lý Nam Đế tên là Lý Phật tử đem quân đánh Triệu Quang Phục. Đánh nhau 5 trận, quân Lý Phật tử có phần núng thế nên xin giảng hoà. Quang Phục đồng ý, chia đôi nước, phân rõ địa giới, hai nhà hoà hảo cùng cai trị. Tuy vậy, năm 571, Lý Phật tử trái thệ ước, mang quân đánh úp. Triệu Quang Phục thua chạy rồi tự vẫn.
Sau khi Triệu Quang Phục mất ít lâu, năm 602, nhà Tuỳ (khi đó đã thống nhất Trung Hoa) mang quân thảo phạt Lý Phật tử. Quân Vạn Xuân không kháng cự nổi, Lý Phật tử xin hàng. Nước Việt một lần nữa rơi vào vòng đô hộ của vương triều phương bắc.
3. Phùng Hưng (? – 791)
Phùng Hưng tự là Công Phấn, người làng Đường Lâm có sức mạnh phi thường, dũng mãnh, đánh được hổ, vật được trâu. Vốn con nhà hào phú, có thế lực. Nhân Giao Châu có biến loạn, Phùng Hưng thu thập dũng sĩ, dựng cờ khởi nghĩa chống lại Cao Chính Bình, đánh chiếm được cả Đô hộ phủ (vốn được nhà Đường lập ra để cai trị nước Nam).
Phùng Hưng vào Đô hộ phủ trị vì được 7 năm thì mất. Ông được đời sau tôn làm “Bố Cái Đại Vương”. Tuy cầm quyền không lâu nhưng Phùng Hưng đã đặt nền móng quan trọng cho cuộc tự chủ của nước Việt. Ở những thế kỷ sau, sự nổi lên của họ Khúc chính là kế thừa một phần di sản và ảnh hưởng rất lớn của Phùng Hưng.
4. Đặng Dung (1373 – 1414)
Ông là một danh tướng cũng vừa là nhà thơ sinh vào thời đất nước loạn ly, bị quân nhà Minh chiếm đóng. Ông cùng cha mình là Đặng Tất (cũng là một tướng tài) phò tá các vua nhà Hậu Trần, ôm chí khôi phục quốc thống. Hai cha con Đặng Dung lập công đầu trong trận Bô Cô (địa danh nay thuộc Nam Định), đánh bại tướng nhà Minh là Mộc Thạnh, loại khỏi vòng chiến tới 100 nghìn quân địch.
Tuy thắng quân Minh nhiều trận nhưng sau do nội bộ chia rẽ, nhà Hậu Trần dần trở nên yếu thế. Đến khi tướng Trương Phụ đem quân tiếp ứng cho Mộc Thạnh, cục diện đã an bài. Đặng Dung tuy dũng mãnh, tài trí nhưng thân cô thế cô, không thể chống đỡ.
Trận đánh cuối cùng của ông là trận Sái Già. Năm 1413, Trương Phụ mang quân tiến vào Thuận Hoá hòng quét sạch quân Hậu Trần. Đặng Dung đặt phục binh ở sông Sái Già, đang đêm đánh úp Trương Phụ. Đặng Dung đã lên được tới thuyền tướng soái toan bắt sống Trương Phụ nhưng lại không biết mặt. Trương Phụ nhân đó mà thoát được. Quân Đặng Dung khi ấy chỉ còn là tàn binh, mau chóng tan vỡ sau khi Trương Phụ đem binh đánh úp lại.
Đặng Dung sau này bị bắt giải về Trung Hoa nhưng giữa đường đã tuẫn tiết để giữ tròn khí tiết. Ông có để lại một bài thơ tên là “Cảm hoài”, tỏ rõ lòng yêu nước và khí phách của mình, trong đó có những câu như: “Thù trả chưa xong đầu đã bạc. Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày“.
5. Lê Hoàn (941 – 1005)
Là hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê nhưng trước đó Lê Hoàn là một đại tướng quân rất nổi bật trong thời kỳ đầu tự chủ của nước Việt. Sau khi hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh bị sát hại, Lê Hoàn làm nhiếp chính vương phò tá hoàng đế Đinh Toàn mới 6 tuổi. Nhà Tống nhân đó mang quân xâm phạm bờ cõi Đại Cồ Việt.
Lê Hoàn là “Thập đạo tướng quân”, được giao phó nhiệm vụ đánh giặc. Thái hậu Dương Vân Nga thậm chí đã nhường ngôi hoàng đế cho ông. Lê Hoàn thống lĩnh quân đội ra trận, chém tướng Hầu Nhân Bảo, bắt sống 2 tướng khác về Hoa Lư. Quân Tống thua chạy dài. Mặt bắc yên ổn, Lê Hoàn lại xuất chinh bình Chiêm ở phía nam. Sử cũ chép, người Chiêm Thành bắt giữ sứ thần của nhà Lê, nhân đó Lê Hoàn cho đóng chiến thuyền, sắm sửa khí giới, hành quân vào nam, san phẳng thành trì, thu bắt được vô số người và vàng bạc, châu báu.
Võ công của Lê Hoàn được rất nhiều sử gia thừa nhận. Không chỉ là đại tướng quân chinh nam, chiến bắc, lập nhiều công trạng, ông còn là một ông vua trị nước thông minh với những chiến lược khôn khéo: hoà hoãn với Tống, cứng rắn với Chiêm. Sử gia Lê Văn Hưu viết về ông: “Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện, Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được”.
Hữu Bằng