Một năm mới lại bắt đầu, thiếp xuân mời hạnh phúc đến! Tân niên nguyên đán, thiếp đào mới thay thế phù hiệu cũ, chữ đơn nào thường được nhà nhà ưa chuộng nhất cho thiếp xuân? Giành được vương miện này chính là chữ “Phúc 福”.
Chữ “Phúc” không chỉ được thứ dân trăm họ yêu thích, mà cả hoàng thất triều đình cũng rất yêu thích, hoàng đế nhà Thanh khai bút đón năm mới, ban chữ Phúc cho muôn dân. Vậy thì, “Phúc” khí này từ đâu mà tới?
Các hoàng đế nhà Thanh đều có nghi thức khai bút ban phúc cho dân chúng, và hoàng đế Khang Hy, vị thánh tổ của nhà Thanh, là người khởi tác dụng làm hình mẫu. Chữ “Phúc” họa bởi thư pháp và ấn ngọc của Hoàng đế Khang Hy được truyền thế, được thiên hạ ưa chuộng, từ Trung Quốc lan truyền ra khắp thế giới, được đặt mỹ danh là “thiên hạ đệ nhất Phúc”.
Mỹ danh “thiên hạ đệ nhất Phúc” của Hoàng đế Khang Hy không phải là lời tâng bốc hay ca ngợi sáo rỗng, bởi công phu luyện hàn thư (thư pháp bút lông) của hoàng đế Khang Hy đơn giản là thiên hạ không mấy người có thể đạt đến. Hoàng đế Khang Hy “từ nhỏ đã viết rất giỏi, mỗi ngày viết hơn ngàn chữ, không ngừng nghỉ … trong hơn 32 năm”, theo “Khang Hy triều thực lục”. Chính là nói, một người thường có thể trong 32 năm không gián đoạn, mỗi ngày đều viết hàng ngàn chữ hàn thư, liệu thế gian có được mấy người? Lại nói, chữ “Phúc” ấy phải ấp ủ công lực của 32 năm khổ luyện mới đạt tới, đương nhiên không phải là nhất thời vui bút. “Thiên hạ đệ nhất Phúc” của hoàng đế Khang Hy đã tích lũy công lực và tâm đắc thư pháp của thánh vương thư pháp Vương Hy Chi, còn có sáng tạo mới, là một chữ Phúc hồn hậu mà “trong phúc có thọ, trong thọ có phúc”.
Chiều dài của chữ Phúc của hoàng đế Khang Hy dài hơn 50cm từ trên xuống dưới, ngoại hình dài và mảnh, mọi người ưa gọi nó là “trường thọ Phúc”. Chữ “Phúc” của ông mang bút ý của chữ “Phúc” trong chữ thảo của Vương Hy Chi, đồng thời còn thêm vào bút pháp của chữ “Thọ 壽” trong thảo thư “Thiếp ngày 6 tháng 12” của Vương Hy Chi, triển hiện trên phía trên bên phải của chữ “Phúc”, ẩn tàng ý tứ đa thọ, trường thọ.
Chữ “Thiên hạ đệ nhất Phúc” mà hoàng đế Khang Hy viết là để cầu phúc cho tổ mẫu, ngoài ra vào ngày mùng 1 tháng 12 hoàng lịch cuối năm, ông cũng khai bút viết một chữ “Phúc” lớn, ban tặng nó cho các vương công đại thần và những người tùy tùng, để đón phúc của năm mới. Tác pháp mà hoàng đế Khang Hy khai bút ban phúc đã trở thành hình mẫu cho các hoàng đế nhà Thanh thế hệ sau.
Thanh Thế Tông Ung Chính hoàng đế, chữ “Phúc” mà ông viết, ngoài các quan cận thần trong triều, còn ban cấp cho các tướng quân, tổng đốc và tuần phủ các tỉnh trực thuộc. Khi họ dâng tấu chiệp hồi tấu cung tạ hoàng đế ban chữ, hoàng đế Ung Chính đã phê một chỉ dụ, khuyên nhủ các quan viên: Phúc là của chung thiên hạ, không phải của riêng một người một nhà, các quan lớn biên cương giám sát và lãnh đạo quan viên văn võ, nhất định hãy giúp cho người dân trong các sở hạt địa phương của mình no đủ, an cư lạc nghiệp, mới là một tỉnh có phúc, từ đó mà thiên hạ nơi nơi an cư lạc nghiệp.
Trong thời trị vì của hoàng đế Cao Tông Càn Long của nhà Thanh, khai bút ban chữ Phúc đã trở thành việc thường lệ trong triều mỗi năm. Hoàng đế Càn Long tại Cung Trọng Hoa khai bút ban “Phúc”, và chữ “Phúc” đầu tiên được viết là tại chính điện Cung Càn Thanh. Sau đó, các chữ phúc do chính ông viết được phân phát đến các cung điện và ngự viên. Đại sự khai bút ban “Phúc” kéo dài suốt cả tháng Chạp, đầu tiên là ban chữ Phúc cho những người có công lao đặc biệt, vào ngày 17, các quan đại thần và cận vệ của triều đình được triệu kiến để ban chữ Phúc, vào ngày 26, 27 và các ngày khác lại triệu kiến các vương công, đại thần, hàn lâm nội đình đến Cung Trọng Hoa ban chữ Phúc.
Cây bút mà hoàng đế Càn Long dùng để khai bút được khắc dòng chữ “Ban phúc thương sinh” bằng chữ chính giai, chiếc bút này tương truyền là bút ngự dụng của thánh tổ lưu tặng. Quản bút được sơn đen, bốn chữ “Ban phúc thương sinh” bằng vàng. Mỗi năm sau khai bút, chiếc bút được đặt lại trong hộp gỗ đàn hương để trân tàng, giữ cho luôn mới. Loại giấy dùng để viết chúc phúc là lụa tơ tằm nhuộm chu sa, trên vẽ rồng Kim Vân, do Giang Tô sản xuất và cung ứng theo tiêu chuẩn hàng năm.
Năm bính dần Càn Long xây dựng chùa Xiển Phúc, từ năm nhâm thân về sau, hoàng đế Càn Long đều lên chùa thắp hương trước rồi mới hồi cung viết thư phúc. Lúc khai bút, trước tiên phải châm hương tỏ lòng thành kính. Dùng một tấm hoành phi chạm rồng sơn son thiếp vàng, chính giữa đặt một lò hương cát tường bằng đồng cổ và hai mâm hương bằng đồng cổ. Ông cầm ống bút hun thơm qua lò hương, rồi mới bắt đầu mài mực.
Khi Càn Long bắt đầu viết thư phúc vào năm Kỷ Tỵ, ông cũng viết bài thơ “Thư phúc”, như sau:
Cận thủy phiên bình đãi bách liêu, lâm hiên thư Phúc khánh ân chiêu.
Cửu trù ki tử trù thư diễn, nhất bút vương gia bút trận siêu.
Gia dữ hồng tiên nghênh giới chỉ, tương phu thải thắng hoán nguyên triêu.
Bất đồ lộng hàn khâm phu tích, gia pháp thằng thừa ngưỡng thánh nghiêu.
Trong bài thơ của mình, hoàng đế Càn Long đã mô tả hai hàm ý lớn của sự kiện khai bút viết chữ “Phúc” để ban cho triều thần: một là mang cát phúc ban cấp cho các quan trong triều, hai là bản thân ông trong nội tâm chiêm ngưỡng điển phạm tổ tiên hoàng đế Khang Hy nghênh rước cát phúc ban cho chúng thần, thành kính kế tục gia pháp.
Ngoài thư phúc, hoàng đế Càn Long còn vung bút viết câu đối, có nhiều loại câu đối hồng vân long ngũ thất ngôn đến thập tam ngôn. Ngoài ra ông còn viết thiếp xuân, như chữ trường “thọ”, “nghi xuân nhạ tường”, “nhất niên khang thái” và các thiếp xuân khác, không ít hơn trăm cái.
Hoàng đế Nhân Tông Gia Khánh của triều Thanh khai bút thư phúc, mỗi năm khi giao thừa nguyên đán, ông dưỡng tâm tại điện Đông Noãn Các khai bút. Trên bàn bài trí chén vàng nến ngọc, bày sẵn ngự bút “vạn niên Thanh”, (quản bút gọi là ‘vạn niên chi’). Trước tiên nhuộm đỏ bút lông viết mấy câu cát tường, rồi dùng mực viết những lời chúc phúc lành.
Vì sao từ hoàng đế đến thứ dân trăm họ đều hướng “phúc” nghênh “phúc” trong năm mới? “Phúc khí” rốt cuộc từ đâu mà đến?
Trong sách giáp cốt triều đại nhà Thương, theo sách “Nghiên cứu bổ sung và giải thích thư sách Ân Hư” của La Chấn Ngọc, chữ “phúc” là một ký tự tượng hình, là “lưỡng thủ phụng tôn (tửu khí) ư thị (thông [kỳ], âm đồng kỳ, địa Thần) tiền, …. tức hậu thế chi phúc tử.” – Đây là biểu hiện hình ảnh người dùng rượu cung kính thờ phụng Thần. Sách “Thuyết văn giải tự” nói: “Phúc, hựu dã.”
Vào thời nhà Chu, có một vị quan đại tông bá, chủ quản tế tự, giúp cho các nghi lễ tế thiên, thần, nhân, quỷ, địa (theo “Chu Lễ – Xuân Quan – Đại Tông Bá”), tên Trịnh Huyền chú rằng: “Thị, âm kỳ, bổn hoặc tác kỳ.”
Tổng hợp lại ý nghĩa trước sau mà nói, phúc hựu là đến từ Thần, đến từ trái tim chân thành tôn kính và phụng sự Thần. Phúc lành của một quốc gia, phúc và thọ của một cá nhân, đều đến từ phúc lành của Thần, đây cũng là cội nguồn phúc khí của “Thiên hạ đệ nhất Phúc” hoàng đế Khang Hy. Nếu khoan ái, nhân từ thuận theo thiên mệnh mà hành xử, đều là đức hành được Thiên thượng khẳng định. Thuận thiên mà hành, phúc hựu cũng sẽ tự đến tại nhân gian. Trái lại nếu ai hành xử trái đạo, xa rời nhân đạo, thì Thần chẳng đoái hoài, người đó không chỉ cầu phúc không đạt phúc hựu, mà đến khi nghiệp tội cuồn cuộn vô biên, thì hối hận cũng đã muộn màng!
Hương Thảo biên dịch.