Đạo đức phản ánh phong thái xã hội. Người thuận theo đạo đức thì xã hội mới được bền lâu.
Thế nào là Cần? Quý tiếc thời gian, chịu khổ chịu khó, cẩn thận nghiêm túc là Cần. Người cần cù đại đa số là người có tư tưởng chịu khó, chịu khổ, cố gắng nỗ lực, cho nên họ luôn gắng sức làm tốt công việc.
Tung hoành gia nổi tiếng thời kỳ Chiến Quốc là Tô Tần. Khi còn trẻ Tô Tần muốn thuyết phục vua Tần thực hiện chính sách Liên hoành nên đã 10 lần dâng thư mà không được chấp nhận. Lúc này y phục ông đã rách nát, lộ phí cũng đã tiêu hết, mặt như cành cây khô, đành phải bó chân, đi giày cỏ, cõng thư tịch, gánh hành lý, mang theo nỗi lòng tủi hổ rời khỏi nước Tần.
Về đến nhà, vợ ông cũng chẳng rời khung cửi dệt vải để nghênh đón, chị dâu cũng chẳng nấu cơm cho ông ăn, cha mẹ cũng chẳng đáp lời ông. Nhưng Tô Tần không oán trách người nhà, cũng không thối chí nản lòng. Ông lập tức ra thư án đọc, đến nửa đêm, mệt nhọc buồn ngủ, ông bèn dùng dùi đâm vào bắp đùi để tỉnh táo đọc tiếp, khiến cho máu tươi chảy đầm đìa xuống gót chân.
Sau đó ông lại đi chu du các nước, thuyết phục 6 nước như Triệu, Ngụy, Tề… hợp sức chống Tần. Ông được đeo ấn tướng quốc của 6 nước, trở thành vị tướng quốc của 6 nước, một việc xưa nay chưa từng có.
Trợ giúp người hành thiện, gặp dữ hóa lành. Thiện lương, làm việc thiện khiến người người nâng cao phẩm hạnh. Bản tính tiên thiên của con người là thiện lương: Nhân chi sơ, tính bản thiện.
Thiện có thiện báo, ác có ác báo. Có câu cổ ngữ: “Họa phúc không có cửa, chỉ do con người tự chiêu mời. Thiện ác có báo ứng, giống như hình với bóng”.
Thời Xuân Thu, Triệu Thuẫn ở Ế Tang thấy một người sắp chết đói, ông bèn vội vàng cho người đó ăn. Người sắp chết đói đó chỉ ăn một nửa rồi cất đi. Triệu Thuẫn hỏi nguyên do, anh ta nói muốn đem nửa phần thức ăn này đem về cho mẹ. Triệu Thuẫn cảm động lòng hiếu thảo của anh ta, bảo rằng cứ ăn hết đi và chuẩn bị thêm một giỏ thức ăn có cả thịt để anh ta đem về cho mẹ.
Sau này Tấn Linh Công đánh giết Triệu Thuẫn. Trong lúc cuộc chiến đang diễn ra ác liệt, Triệu Thuẫn sắp lâm nguy thì một võ sỹ của Tấn Linh Công quay giáo chống lại, cứu thoát Triệu Thuẫn. Sau khi thoát chết, Triệu Thuẫn hỏi viên võ sỹ đó tại sao lại làm như vậy. Anh ta trả lời rằng: “Tôi chính là kẻ suýt chết đói ở Ế Tang năm xưa”.
Con người cần phải chân thành bất kể là làm việc cũng như làm người. Trước tiên học làm người, sau đó học làm việc.
Yến Thù là tể tướng và nhà thơ nổi tiếng triều Tống. Khi ở tuổi thiếu niên ông đã được Trương Tri Bạch tiến cử với triều đình với danh tiếng “Thần đồng”. Khi đến cung điện đúng lúc vua đang đích thân ra đề thi tiến sỹ. Vua liền lệnh cho Yến Thù làm bài thi. Yến Thù nhìn đề thi liền nói: “10 ngày trước thần đã làm đề như thế này rồi, có bản thảo ở đây, xin được đổi một đề khác”.
Tống Chân Tông đánh giá cao bài thi của ông, nhưng điều vua đánh giá cao hơn cả là sự thành thật của Yến Thù. Khoa thi đó Yến Thù đỗ Tiến sỹ.
Sau khi Yến Thù vào triều làm quan, đương thời thiên hạ thái bình vô sự nên cho phép bá quan chọn nơi có cảnh đẹp mở tiệc. Khi đó danh sỹ đại phu, triều thần ai nấy đều dự tiệc vui vẻ. Nhưng Yến Thù lại ở nhà cùng với huynh đệ giảng học thi thư.
Một hôm trong cung chọn quan dạy thái tử, hoàng đế chấm Yến Thù và bổ nhiệm ông. Hoàng đế cho rằng: “Gần đây nghe nói các đại thần các quán các đề vui chơi yến tiệc, chỉ có Yến Thù cùng huynh đệ đóng cửa ở nhà đọc sách. Người cẩn thận trung hậu như thế này đúng là người thích hợp có thể dạy thái tử học tập”.
Yến Thù chất phác nói rằng: “Không phải hạ thần không thích vui chơi yến tiệc, chỉ là gia cảnh nghèo không có tiền đi chơi thôi. Nếu thần có tiền cũng sẽ đi yến tiệc, chỉ vì không có tiền nên không bước chân ra khỏi nhà”.
Hoàng thượng thấy vậy càng tán thưởng, càng ngày càng sủng ái. Sau này thái tử đăng cơ, ông được trọng dụng, quan lộ thăng dần đến chức Tể tướng.
Ở Đông Kinh đời Tống có một quán trà nhỏ, trà cụ trang nhã thanh khiết, làm ăn rất hưng thịnh.
Có nhân sỹ họ Lý cùng bằng hữu uống trà trong quán này, sơ ý để quên túi tiền đựng mấy chục lạng vàng trên bàn rồi ra đi. Mấy năm sau, ông Lý lại đến quán trà này, trong lúc trò chuyện với bằng hữu có kể lại câu chuyện mấy năm trước. Chủ quán nghe thấy lập tức nói chen vào: “Túi tiền mà quan nhân nói đến, thảo dân nhặt được. Nếu ngài nói đúng số lượng thì ngài có thể đem về”.
Ông Lý kinh ngạc phấn khích nói: “Quán nếu thực sự nhặt được thì tôi xin tặng một nửa”.
Chủ quán chỉ cười mà không nói gì. Trong quán có một cái gác nhỏ, chủ quán vịn lan can leo lên. Trong gác nhỏ thấy có một lượng lớn những đồ khách hàng để quên, nào là ô, giày, y phục, đồ sành sứ… Trên mỗi đồ vật đều có mảnh giấy ghi rõ ngày tháng năm, người hình dáng thế nào để quên. Đến góc căn gác, chủ quán lấy một cái túi nhỏ, vẫn còn nguyên như trước.
Chủ quan lấy xuống rồi hỏi ông Lý. Ông Lý nói số lượng và trọng lượng vàng bên trong. Khi mở ra kiểm đếm, quả đúng như vậy. Chủ quán lập tức trả toàn bộ vàng cho chủ nhân. Ông Lý lấy ra một nửa tặng cho người chủ quán quân tử chí thành này. Chủ quán từ chối và nói: “Thảo dân nếu trọng tài khinh nghĩa thì đã cất giấu đi từ lâu rồi”.
Là người kinh doanh, muốn đạt được thành công thì không thể nào không dựa vào sự tín nhiệm và ủng hộ của khách hàng. Những thương nhân thành công trong lịch sử, không ai là không coi chữ tín làm đầu, trung thành trên hết, lấy chữ tín làm cái gốc lập thân. Chữ tín là tài sản vô hình quý giá của thương nhân. Giữa doanh nhân, doanh nghiệp và dân chúng, tuyệt đối không được dùng thủ thuật dối trá, không được làm ăn giả dối, cần phải có “một lời hứa giá ngàn vàng”, lấy chữ tín làm cái gốc lập thân.
Cần cù học tập khổ luyện thì kỹ năng nghề nghiệp mới tinh thông.
Khi Khổng Tử còn trẻ, ông theo vị quan nhạc nước Lỗ là Sư Tương học đàn. Sư Tương nói với Khổng Tử: “Khúc nhạc này trò đã chơi tốt rồi, có thể học sang khúc nhạc mới”.
Khổng Tử nói: “Chưa được, học trò vẫn chưa nắm vững kỹ xảo diễn tấu”.
Sau một thời gian, Sư Tương nói với Khổng Tử rằng: “Bây giờ trò đã nắm vững kỹ xảo diễn tấu khúc nhạc này rồi, có thể học sang khúc nhạc mới”.
Khổng Tử nói: “Học trò vẫn chưa lĩnh hội được ý cảnh của khúc nhạc này”.
Lại sau một khoảng thời gian, Sư Tương nói: “Trò đã lĩnh hội được ý cảnh khúc nhạc này rồi, có thể học sang khúc nhạc mới”.
Khổng Tử lại nói: “Học trò vẫn chưa biết ai là người sáng tác ra khúc nhạc này”.
Cứ như thế, Khổng Tử trước sau vẫn chỉ luyện tập chơi một khúc nhạc. Một hôm Khổng Tử trong khi đang chơi đàn thì trong tâm bỗng có sở ngộ, ông liền đứng lên nhìn về phương xa nói: “Học trò đã biết ai sáng tác khúc nhạc này rồi. Người này da ngăm đen, thân thể cao thanh mảnh, tấm lòng rộng lớn, chí hướng cao xa, ngoài Chu Văn Vương ra thì còn có thể là ai nữa”.
Sư Tương nghe thấy thế vội vàng đứng dậy, vừa thi lễ với Khổng Tử vừa nói: “Trò quả là bậc Thánh nhân. Khúc nhạc này, thầy dạy ta nói cho ta biết là khúc “Văn Vương tháo” (Tiết tháo của Văn Vương) do Chu Văn Vương sáng tác”.
Xuân Thanh.